Tài sản trí tuệ và khoảng trống niềm tin thị trường

09/24/2025 14:30:00 / Đăng bởi Trương Anh Tú / (0) Bình luận

(LSVN) - Một doanh nghiệp công nghệ sở hữu nền tảng triệu người dùng, có doanh thu thật, dữ liệu thật, khách hàng thật. Nhưng khi "gõ cửa" ngân hàng để vay vốn, họ vẫn nhận lại một câu hỏi cũ kỹ: “Có đất hay xe để thế chấp không?” Câu chuyện tưởng như riêng lẻ ấy lại hé lộ một nghịch lý lớn: Ở Việt Nam, sáng tạo đã trở thành tài sản vô hình thực sự, nhưng hệ thống pháp lý - tài chính - xã hội vẫn chưa đủ niềm tin để coi nó là vốn.

Trong nhiều năm, chúng ta đã nói nhiều về bảo hộ sở hữu trí tuệ, về khung pháp lý cho giao dịch tài sản vô hình, về nhu cầu định giá và thị trường hóa IP. Nhưng có lẽ, vấn đề căn cốt hơn – và ít được nhắc tới – chính là niềm tin. Luật có thể sửa. Cơ chế có thể thiết kế. Thậm chí, có thể thành lập trung tâm, sàn giao dịch, quỹ bảo lãnh. Nhưng nếu ngân hàng không tin vào giá trị tài sản trí tuệ, nhà đầu tư không tin vào hệ thống định giá, doanh nghiệp không tin vào khả năng tài sản hóa sáng tạo, và xã hội không tin rằng ý tưởng cũng là của cải, thì mọi sáng tạo sẽ mãi chỉ là thứ nằm trên giấy.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

 Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Pháp luật Việt Nam không thiếu quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Bộ luật Dân sự 2015 đã xác lập IP là một loại quyền tài sản. Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định 21/2021/NĐ-CP cũng cho phép IP trở thành đối tượng bảo đảm. Nhưng chưa có một tiền lệ tín dụng nào đáng kể, trong đó phần mềm, thương hiệu hay sáng chế được chấp nhận làm tài sản thế chấp. Lý do là bởi luật chỉ dừng ở mức “ghi nhận quyền”, chứ chưa tạo dựng được hệ sinh thái niềm tin để thị trường vận hành. Không có chuẩn mực định giá. Không có cơ chế hậu kiểm. Không có quy trình xử lý khi nợ xấu phát sinh từ một tài sản vô hình. Trong một môi trường như vậy, ngân hàng chọn giải pháp an toàn nhất: từ chối.

Trong khi các doanh nghiệp thuộc S&P 500 hiện nay có đến 90% giá trị vốn hóa đến từ tài sản vô hình (theo WIPO, 2024), thì tại Việt Nam, phần lớn tài sản trí tuệ vẫn chỉ được hạch toán như “chi phí R&D” hoặc “công cụ phụ trợ”. Một thương hiệu triệu đô, một thuật toán trí tuệ nhân tạo được huấn luyện từ hàng trăm tỷ đồng, một kho dữ liệu y sinh học khổng lồ, khi bước vào hồ sơ IPO hay M&A – thường chỉ xuất hiện như một dòng chú thích, chứ không được coi là mục tài sản. Hệ quả là thị trường không có thói quen nhìn IP như tài sản tài chính. Nhà đầu tư dè dặt vì không có chuẩn định giá. Ngân hàng hoài nghi vì không có cơ chế xử lý rủi ro. Doanh nghiệp không mặn mà vì chưa từng coi IP là tài sản sinh lời. Một vòng luẩn quẩn lặp lại: vì không tin nên không giao dịch, vì không có giao dịch nên lại càng khó để tin.

Sâu hơn nữa, đây không chỉ là vấn đề luật hay ngân hàng, mà là vấn đề của văn hóa pháp lý. Trong xã hội vẫn tồn tại tâm lý “có đất mới chắc”, “có nhà mới an toàn”, còn ý tưởng, sáng chế, phần mềm… thì bị coi là thứ phù phiếm, không đáng để đặt niềm tin. Nhiều chủ doanh nghiệp thậm chí không đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm của mình, vì nghĩ “có cũng được, không có cũng chẳng sao”. Chính tâm lý ấy đã khiến không ít startup Việt bị đối tác nước ngoài “đăng ký trước” thương hiệu hoặc sáng chế tại thị trường quốc tế, buộc phải mua lại chính tài sản của mình – một cú đánh đau, không chỉ về kinh tế mà còn về thể diện. Khi xã hội chưa tin vào tài sản trí tuệ, thì ngay cả những người sở hữu nó cũng dễ dàng buông tay.

Các quốc gia đi trước đều hiểu một điều đơn giản: muốn tài sản trí tuệ vận hành trong thị trường, trước hết phải có một hạ tầng niềm tin. Hàn Quốc lập Korea IP Bank, nơi phát hành chứng thư định giá và bảo lãnh tín dụng, coi đó như giấy thông hành để IP bước vào ngân hàng. Singapore xây dựng hệ sinh thái IPOS với quy trình đầy đủ từ đăng ký, định giá đến IP Marketplace, tạo ra một thị trường nơi mỗi giao dịch đều có dữ liệu công khai và cơ chế hậu kiểm. Mỹ công khai toàn bộ dữ liệu giao dịch quyền sở hữu công nghiệp, giúp thị trường thứ cấp vận hành minh bạch và hấp dẫn đầu tư. Một nghiên cứu của Hall (2007) cho thấy: Bằng sáng chế châu Âu chỉ thực sự có giá trị thị trường nếu được bảo hộ tại Mỹ, vì thị trường tin vào thể chế Mỹ.

Việt Nam có thể học hỏi những mô hình đó, nhưng quan trọng hơn là nhận diện đúng khoảng trống lớn nhất hiện nay không phải là thiếu luật, mà là thiếu niềm tin. Luật có thể sửa. Cơ quan có thể thành lập. Thị trường có thể dựng lên. Nhưng nếu niềm tin không được kiến tạo song song, bằng dữ liệu minh bạch, bằng hậu kiểm định giá, bằng chế tài nghiêm với gian lận tài sản vô hình, thì mọi hạ tầng sẽ rơi vào trạng thái “tượng trưng”.

Nếu đất đai cần “sổ đỏ” để ngân hàng tin, thì tài sản trí tuệ cũng cần một “sổ đỏ vô hình” một bộ khung pháp lý cho phép định danh, định giá, định chuẩn và định hướng sử dụng. Nhưng “sổ đỏ vô hình” không chỉ là văn bản pháp lý. Nó là niềm tin có tổ chức. Là dữ liệu được hậu kiểm. Là chế tài minh bạch. Là văn hóa tôn trọng sáng tạo. Và quan trọng nhất, là một hệ sinh thái mà trong đó: nhà đầu tư dám rót tiền, ngân hàng dám giải ngân, doanh nghiệp dám đưa IP vào bảng cân đối kế toán như một loại tài sản thực sự.

Một nền kinh tế tri thức không thể được xây dựng chỉ bằng đạo luật. Nó phải được xây bằng niềm tin, niềm tin của doanh nghiệp vào hệ thống pháp lý; niềm tin của ngân hàng vào cơ chế định giá; niềm tin của xã hội rằng trí tuệ có giá trị không kém và nhiều khi còn lớn hơn, đất đai hay nhà xưởng. Khi niềm tin ấy được hình thành, tài sản trí tuệ mới có thể bước ra khỏi ngăn kéo để trở thành dòng vốn thật. Và chỉ khi đó, Việt Nam mới thực sự có một nền kinh tế sáng tạo đúng nghĩa.

Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, chuyên gia pháp lý cấp cao trong lĩnh vực tài sản trí tuệ, tài sản vô hình và thể chế đổi mới sáng tạo.

“Luật có thể bảo hộ quyền, nhưng chỉ có niềm tin mới biến quyền thành giá trị. Niềm tin là tài sản vô hình quan trọng nhất của thị trường tài sản vô hình”.

Luật sư TRƯƠNG ANH TÚ

Chủ tịch TAT Law Firm.

hotline 0848009668