09/11/2025 11:48:41 / Đăng bởi Trương Anh Tú / (0) Bình luận
(LSVN) – Trong bối cảnh đất nước chuyển mình mạnh mẽ, việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo đã trở thành động lực then chốt để phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, để hiện thực hóa mục tiêu này, việc hoàn thiện thể chế pháp lý, đặc biệt là các quy định về bảo vệ tài sản vô hình, là vô cùng cấp thiết. Với tầm nhìn chiến lược, Nghị quyết 57- NQ/TW đã định hướng rõ việc đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tiếp nối tinh thần đó, Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời được kỳ vọng là đòn bẩy quan trọng để hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền sáng tạo của doanh nghiệp tư nhân. Với mục tiêu đó, ngày 11/9, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Công ty Luật TNHH Trương Anh Tú (TAT Law Firm) phối hợp tổ chức Diễn đàn khoa học với chủ đề: “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW”.
Tham dự Diễn đàn, về phía khách mời có: Ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục SHTT; ông Đoàn Duy Hiệp, Thanh tra Chính phủ; bà Trần Minh Huệ, Phó Phòng Công nghệ & Kinh tế số, Sở KH&CN Hà Nội; Luật sư Nguyễn Văn Hà, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội; cùng đại diện Học viện Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam, các doanh nghiệp, luật sư, chuyên gia pháp lý, cơ quan báo chí truyển thông tham dự đưa tin...

Toàn cảnh Diễn đàn.
Về phía Ban Tổ chức có: Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam; Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam khẳng định, Luật SHTT ngày nay không chỉ là công cụ pháp lý bảo vệ, nâng niu đổi mới sáng tạo, mà còn trở thành “lá chắn” để doanh nghiệp trụ vững trong kỷ nguyên số, đồng thời là thước đo năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, thực trạng xâm phạm quyền SHTT tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, từ hàng giả, hàng nhái, cạnh tranh không lành mạnh, cho tới việc nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu nguồn lực để tự bảo vệ thương hiệu. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện chính sách, tăng cường hiệu quả thực thi và xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, giới luật sư, hiệp hội và truyền thông.

Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam phát biểu khai mạc Diễn đàn.
Dự thảo Luật SHTT sửa đổi dự kiến trình Quốc hội thông qua trong năm 2025 và có hiệu lực từ năm 2026. Trong đó, đề xuất thành lập tòa chuyên trách về SHTT đang được xem xét là một bước đi đúng hướng, không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn khi số lượng tranh chấp ngày càng tăng, mà quan trọng hơn, để thiết lập một nền tư pháp hiểu đúng - hiểu sâu. Không chỉ thực tiễn đặt ra yêu cầu cải cách, mà ngay trong định hướng chiến lược của Ban Chấp hành Trung ương như trong 4 Nghị quyết trụ cột nhằm tạo động lực cho đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới với mục tiêu năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển với thu nhập cao, trong đó cụ thể Nghị quyết 68-NQ/TW cũng đã nhấn mạnh yêu cầu “hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền SHTT, bảo đảm thực thi hợp đồng, giảm rủi ro pháp lý”. Điều đó cho thấy cải cách tư pháp trong lĩnh vực SHTT không chỉ là yêu cầu đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn mà trở thành chiến lược phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Với sáng kiến khởi xướng từ Công ty Luật TAT được dẫn dắt bởi Luật sư Trương Anh Tú – một trong những luật sư chuyên sâu về SHTT cùng với sự bảo trợ của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tạp chí Luật sư Việt Nam tổ chức Chương trình Diễn đàn: “Thể chế hoá đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW”. Diễn đàn có sự tham gia của đại diện các cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, các cơ quan thông tấn báo chí tham dự đưa tin.
“Những ý kiến của các quý vị đại biểu ngày hôm nay sẽ được thông tin rộng rãi trên các phương tiện báo chí, truyền thông; là nguồn thông tin tham khảo quan trọng giúp các cơ quan quản lý đưa ra những chính sách thiết thực, phù hợp với tình hình thực tiễn, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới sáng tạo của đất nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp”, Tổng Biên tập Đặng Ngọc Luyến nói.
PHIÊN I – THỂ CHẾ HOÁ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Đổi mới sáng tạo – Tài sản vô hình là nguồn lực phát triển đất nước: Từ Nghị quyết đến thể chế
Trình bày tham luận để làm rõ chuyên đề “Đổi mới sáng tạo – Tài sản vô hình là một trong những nguồn lực phát triển đất nước: Từ thực tiễn Nghị quyết đến thể chế”, Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm cho biết: Lần đầu tiên trong lịch sử các văn kiện của Đảng, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã gọi đích danh “tài sản vô hình” là một nguồn lực then chốt, và đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa đầy đủ các quyền đối với loại tài sản này, bao gồm: Quyền sở hữu, quyền định đoạt và tài chính hóa tài sản vô hình.

Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm phát biểu tại Diễn đàn.
Đây là bước ngoặt mang tính tư duy - khi Đảng không chỉ đặt vấn đề “bảo vệ” tài sản trí tuệ, mà nâng nó thành vấn đề chiến lược của nền kinh tế thị trường hiện đại. Cụ thể, Nghị quyết khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”;“phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài”; “Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam”; “bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng”; “bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác”.
Về nhiệm vụ, giải pháp mà Đảng đặt ra đối với tài sản kinh tế tư nhân, trong đó có “tài sản vô hình”, Nghị quyết nêu rõ một số nội dung sau:
“Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân”.
“Bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân”.
“Rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền SHTT và tài sản vô hình; giảm thiểu rủi ro pháp lý. Có chính sách hỗ trợ định giá, bảo hộ quyền SHTT trong nước; hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đăng ký quyền SHTT ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm về SHTT, nhất là vi phạm trên không gian thương mại điện tử. Bảo đảm thực hiện trực tuyến toàn trình thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, cắt giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục yêu cầu cấp quyền SHTT, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế”.
“Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao”.
“Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm bao gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp”.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 57-NQ/TW về hiện đại hóa thể chế - “đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”.
Theo tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW, đổi mới sáng tạo là một trụ cột của mô hình phát triển mới. Nhà nước phải tạo “hệ sinh thái pháp lý” để khuyến khích, bảo vệ và đầu tư cho đổi mới.
“Đây không còn là câu chuyện kỹ thuật, mà là một yêu cầu thể chế, đòi hỏi luật pháp, tài chính, giáo dục, SHTT, công nghệ – phải cùng chuyển động”, Luật sư Tú bày tỏ.
Theo Luật sư Trương Anh Tú: “Trong nền kinh tế tri thức, sự khác biệt không nằm ở quy mô nhà xưởng, mà nằm ở chỉ số sáng tạo và giá trị tài sản trí tuệ. Một thương hiệu cà phê có thể được bán với giá gấp 20 lần nhà xưởng của nó. Một phần mềm logistics trị giá 10 triệu USD có thể không có bất kỳ tài sản vật chất nào – chỉ là dòng mã và 1 đội kỹ sư. Nhưng thử hỏi: Tại Việt Nam, có bao nhiêu doanh nghiệp được ngân hàng cho vay dựa trên giá trị thương hiệu hay bản quyền? Vấn đề không nằm ở thị trường, mà nằm ở luật pháp chưa đủ mạnh để công nhận và tài chính hóa các tài sản vô hình”.
Tại Diễn đàn, Luật sư Trương Anh Tú cũng phân tích rõ những rào cản hiện nay như: Về quy định của pháp luật, ngân hàng, thị trường. Theo đó, quy định còn phân mảnh. Tài sản vô hình ở nước ta đang được được xác định theo các nguồn như sau:
Thứ nhất, theo Bộ Tài chính, Điều 4 Thông tư 37/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ Tài chính về Ban hành chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá tài sản vô hình:
- Tài sản trí tuệ và quyền SHTT theo quy định của pháp luật về SHTT.
- Quyền mang lại lợi ích kinh tế đối với các bên được quy định cụ thể tại hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật ví dụ như quyền thương mại, quyền khai thác khoáng sản.
- Các mối quan hệ phi hợp đồng mang lại lợi ích kinh tế cho các bên, các mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp hoặc các chủ thể khác, ví dụ như danh sách khách hàng, cơ sở dữ liệu.
- Các tài sản vô hình khác thỏa mãn điều kiện quy định như sau: Có bằng chứng hữu hình về sự tồn tại của tài sản vô hình; Có khả năng tạo thu nhập từ tài sản vô hình; Giá trị của tài sản vô hình có thể định lượng được bằng tiền.
Thứ hai, theo Luật Công nghiệp công nghệ số 71/2025/QH15 năm 2025, tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.
Tài sản số bao gồm:
- Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;
- Tài sản mã hóa là một loại tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;
- Tài sản số khác.
Nội dung quản lý tài sản số: Việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; Quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số;…
Tuy nhiên, Luật này cũng không khẳng định: Sản phẩm bán dẫn (Chương III), Trí tuệ nhân tạo (Chương IV) có thuộc loại “tài sản vô hình”.
Thứ ba, Luật SHTT còn là “luật bảo hộ” – chưa phải “luật phát triển tài sản”, Luật hiện nay vẫn chủ yếu quy định về quyền và thủ tục đăng ký – chưa đủ điều kiện để biến IP thành tài sản có thể định giá, định danh, giao dịch, bảo hiểm, thế chấp.
Do đó, cần một luật tài sản trí tuệ tài chính hóa – cho phép đưa tài sản vô hình vào hệ thống kế toán, ngân hàng và đầu tư.
Bên cạnh đó, theo Luật sư Tú, ngân hàng chưa có cơ chế chấp nhận IP như tài sản đảm bảo. Cụ thể, Ngân hàng thương mại vẫn ưu tiên thế chấp đất, xe, nhà xưởng. Thiếu hệ thống định giá IP, thiếu bảo hiểm IP, thiếu thị trường chuyển nhượng IP.
Ngoài ra, doanh nghiệp chưa sẵn sàng “tài sản hóa” ý tưởng. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ giá trị của IP, dẫn đến lơ là bảo hộ hoặc bán rẻ IP. Thiếu nguồn lực chuyên môn để xây dựng, định giá, khai thác và bảo vệ hệ thống tài sản vô hình.
Từ những rào cản nêu trên, Luật sư Trương Anh Tú đề xuất chính sách nhằm từ luật bảo vệ sang luật phát triển. Cụ thể, ba trụ cột chính sách cần được thể chế hóa ngay:
Một là ghi nhận IP là tài sản tài chính hóa được. Theo đó, pháp luật phải cho phép IP được hạch toán, làm tài sản góp vốn, làm tài sản bảo đảm.
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các chuẩn mực định giá, chuẩn mực ghi nhận IP trong báo cáo tài chính.
Hai là hình thành thị trường và hệ sinh thái định giá – giao dịch IP. Theo đó, cần xây dựng trung tâm định giá IP quốc gia, phát triển sàn giao dịch IP và quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên IP.
Ba là bảo vệ quyền sở hữu mạnh mẽ – xử lý nghiêm vi phạm IP. Luật sư Tú cho rằng, Tòa án chuyên trách SHTT cần được kiện toàn và cơ chế thi hành án IP phải minh bạch, hiệu quả, răn đe.

Bày tỏ rõ quan điểm của mình, Luật sư Tú cho biết: “Không thể chỉ trông chờ vào nhà nước. Chính doanh nghiệp và đội ngũ luật sư phải là người tiên phong. Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược tài sản vô hình: đánh giá, bảo hộ, đầu tư vào thương hiệu, quy trình, thiết kế, phần mềm… Luật sư cần đổi mới cách hành nghề: Không chỉ xử lý vi phạm, mà phải trở thành nhà tư vấn tài sản – nhà quản trị IP – và người bảo vệ quyền lợi trong nền kinh tế sáng tạo. Diễn đàn hôm nay không chỉ là nơi trao đổi, mà là nơi khởi đầu cho một bước chuyển thể chế thực sự. Và nếu chúng ta cùng hành động – không chỉ để bảo vệ cái đã có, mà để nuôi dưỡng cái đang đến, thì tài sản vô hình sẽ không còn vô hình – mà sẽ trở thành trụ cột của phát triển quốc gia”.
Xây dựng cơ chế tài phán quốc gia về SHTT tại Việt Nam đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW
Theo TS. Phạm Minh Huyền, Đại học Luật Hà Nội, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, các đối tượng của quyền SHTT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc mang lại lợi thế cạnh tranh, làm gia tăng lợi ích cho các chủ sở hữu cũng như hỗ trợ việc xây dựng uy tín, danh tiếng cho các chủ thể kinh doanh. Với mục tiêu đưa kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, là lực lượng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
TS. Phạm Minh Huyền, Đại học Luật Hà Nội trình bày tham luận tại Diễn đàn.
Thể chế hóa tinh thần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường bảo hộ quyền SHTT đáp ứng yêu cầu hội nhập, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2024, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2025, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2025, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2025 quy định về Tòa SHTT tại một số Tòa án nhân dân khu vực.
Ngày 25 tháng 06 năm 2025, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2025. Theo đó, Tòa SHTT Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ . Đối với những vụ việc mà bản án, quyết định kinh doanh, thương mại; bản án, quyết định dân sự về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm theo quy định. Thẩm quyền về giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại về quyền SHTT và chuyển giao công nghệ tuân theo quy định chung đối với các thủ tục này.
Bên cạnh đó, Tòa SHTT Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực . Đối với những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa Hành chính Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực nhưng bị kháng nghị theo quy định.
Việc thành lập thiết chế về Tòa SHTT tại một số Tòa án nhân dân khu vực là cần thiết bởi tính chất đặc thù của tài sản trí tuệ liên quan đến các yếu tố kỹ thuật như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp; các tranh chấp có yếu tố nước ngoài với sự tham gia của nhiều chủ thể có mối quan hệ phức tạp; các tranh chấp thường khó khăn trong việc xác định thiệt hại, thu thập chứng cứ hay việc đánh giá đúng sai phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Sự hình thành của Tòa SHTT trong một số Tòa án nhân dân khu vực đã bước đầu mở ra cơ hội cho các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân có thể thực thi một cách hiệu quả các quyền độc quyền đối với tài sản trí tuệ do họ tạo ra và được pháp luật ghi nhận, giải quyết thỏa đáng những thiệt hại mà các chủ thể phải gánh chịu do hành vi xâm phạm, đảm bảo tính công bằng, dân chủ cũng như tạo động lực để các doanh nghiệp không ngừng đổi mới sáng tạo, góp phần phát triển khoa học công nghệ cho đất nước. Sự đổi mới này không chỉ đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa trong giải quyết tranh chấp về SHTT có xu hướng gia tăng trong bối cảnh phát triển khoa học công nghệ, mà còn thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền SHTT.
Tuy nhiên, qua phân tích và đánh giá các quy định của Việt Nam, ta có thể thấy pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định về tên gọi, địa vị pháp lý, thẩm quyền xét xử của Tòa SHTT tại Tòa án nhân dân khu vực mà chưa có các quy định cụ thể về nhân sự, tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh cũng như các yếu tố hỗ trợ cho hoạt động của Tòa SHTT. Bên cạnh đó, tính chuyên môn hóa mới được thể hiện ở cấp xét xử sơ thẩm đối với vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ mà chưa mở rộng đối với xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về SHTT cũng như chưa có quy định đặc thù ở cấp xét xử phúc thẩm các tranh chấp liên quan đến SHTT. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính thống nhất, đồng bộ và hiệu quả giải quyết một cách toàn diện các tranh chấp về SHTT, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh phát triển không ngừng của công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới đã thành lập Tòa án chuyên trách về SHTT và hoạt động khá hiệu quả như Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan…
Tại Nhật Bản, Tòa án cấp cao về SHTT được thành lập vào tháng 04 năm 2005 là một nhánh đặc biệt của Tòa án cấp cao Tokyo. Mục đích của việc thành lập Tòa án cấp cao về SHTT là đảm bảo các thủ tục xét xử các vụ án SHTT diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn, dựa trên nhận thức rằng vai trò của ngành tư pháp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo vệ quyền SHTT một cách phù hợp cùng với việc sử dụng tích cực quyền SHTT trong nền kinh tế và xã hội Nhật Bản, qua đó nâng cao các dịch vụ tư pháp chuyên xử lý các vụ án SHTT.
Tại Malaysia, Tòa án chuyên trách về SHTT được chính thức thành lập ngày 17/07/2007 sau một thời gian chuẩn bị các điều kiện cần thiết. Chính phủ Malaysia đã phê chuẩn thành lập 15 Tòa có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến SHTT tại 15 bang (bao gồm cả Putrajaya) và 6 tòa có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự và phúc thẩm tại các bang Kuala Lumpur, Selangor, Johor, Perak, Sabah và Sarawak. Các Tòa chuyên trách về SHTT bao gồm các Tòa án chuyên trách theo phiên thuộc hệ thống Tòa án cấp dưới và các Tòa án chuyên trách cấp cao thuộc hệ thống Tòa án tối cao.
Tại Thái Lan, mô hình Tòa SHTT và Thương mại quốc tế Thái Lan (IPIT Court) là một trong những mô hình tòa chuyên trách đóng vai trò quan trọng và hoạt động hiệu quả nhất của khu vực Châu Á. Tòa án này được thành lập ngày 01/12/1997 với thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự và dân sự và là Tòa án chuyên trách về SHTT đầu tiên ở Đông Nam Á. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả cơ chế tài phán quốc gia về SHTT tại Việt Nam đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 68/NQ/TW
“Từ những phân tích và lập luận trên đây, có thể thấy việc thành lập Tòa án chuyên trách để giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT là cần thiết, đặc biệt, số lượng các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực SHTT phát sinh ngày một nhiều và có xu hướng phức tạp hơn tại Việt Nam”, TS. Phạm Minh Huyền nêu quan điểm.
Từ những phân tích và lập luận trên đây, có thể thấy việc thành lập Tòa án chuyên trách để giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT là cần thiết, đặc biệt, số lượng các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực SHTT phát sinh ngày một nhiều và có xu hướng phức tạp hơn tại Việt Nam. Chính bởi vậy:
Thứ nhất, cần bổ sung thêm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự liên quan đến SHTT cho các tòa SHTT tại tòa án nhân dân khu vực xuất phát từ những đặc thù trong việc xác định tội danh, đánh giá chứng cứ, định giá tài sản trí tuệ và xác định mức hình phạt tương ứng..
Thứ hai, về biên chế, Tòa án SHTT thuộc tòa án nhân dân khu vực và Tòa chuyên trách SHTT tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh (nếu có) phải có ít nhất 3 Thẩm phán, 3 Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Việc xác định biên chế, số lượng Thẩm phán cần căn cứ vào các yếu tố như tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp và quy mô, phạm vi, đối tượng quản lý; quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin và thực tế tình hình quản lý biên chế công chức được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thứ ba, về nhân sự, do đặc thù của lĩnh vực SHTT, thẩm phán của tòa chuyên trách phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sâu về SHTT, có thời gian công tác thực tiễn và có khả năng sử dụng ngoại ngữ tốt, đặc biệt là tiếng Anh. Trong hoạt động tuyển dụng thẩm phán, cần có cơ chế ưu tiên đối với các cá nhân có công trình nghiên cứu về SHTT, đã được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về SHTT ở nước ngoài hay có kiến thức về khoa học, công nghệ.
Thứ tư, về trình tự, thủ tục, pháp luật cần quy định thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp về SHTT tương ứng với tính chất của vụ việc. Đối với những vụ việc có tính chất đơn giản, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng các quy định về thủ tục xét xử nhanh. Trong khi đó, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, liên quan đến yếu tố kỹ thuật, Thẩm phán áp dụng thủ tục xét xử thông thường để có điều kiện đánh giá chính xác bản chất sự việc, tham khảo ý kiến của các đơn vị chuyên môn cũng như thu thập, nghiên cứu chứng cứ một cách kỹ lưỡng, cẩn trọng.
Doanh nghiệp tư nhân và cuộc chiến chống xâm phạm thương hiệu: Từ thực tiễn đến chính sách
Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm cho biết, hiện nay, kinh tế tư nhân đóng vai trò động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế quốc gia, góp phần lớn vào GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và tăng cường năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp hội nhập quốc tế và phát triển xã hội. Tại Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã ghi nhận điều này và chủ trương tập trung phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó nghị quyết đã chỉ ra rất nhiều những khó khăn doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt, những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam là tương đối đầy đủ, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng như Hiệp định TRIPS hay CPTPP . Thế nhưng, một nghịch lý vẫn đang hiện hữu rất rõ: pháp luật không thiếu, nhưng doanh nghiệp vẫn cứ mất thương hiệu. Có những nghịch lý lớn đang tồn tại trong thực tiễn.
Thứ nhất, doanh nghiệp sáng tạo nhanh hơn luật. Mỗi ngày có hàng trăm ý tưởng, mô hình kinh doanh, app công nghệ và nhãn hiệu mới ra đời. Nhưng thủ tục bảo hộ, giám định, xử lý vi phạm lại chậm, cứng nhắc, rườm rà và thiếu liên thông giữa các cơ quan.
Thứ hai, chế tài hiện nay chưa đủ sức răn đe. Có những vụ vi phạm mang lại lợi nhuận hàng chục tỷ đồng, nhưng mức xử phạt hành chính chỉ vài chục triệu. Khi chi phí vi phạm thấp hơn lợi nhuận, vi phạm không còn là rủi ro mà trở thành chiến lược. Chúng ta đang để hành vi xâm phạm thương hiệu trở thành một “mô hình kinh doanh có lời” – điều này nếu không được khắc phục sẽ bào mòn niềm tin vào pháp quyền và môi trường đầu tư.
Thứ ba, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn dĩ chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp cả nước lại là những người yếu thế nhất. Họ không có bộ phận pháp chế nội bộ, không đủ chi phí thuê luật sư thường xuyên, không biết cách đăng ký bảo hộ, không đủ sức theo đuổi kiện tụng. Trong cuộc chơi hội nhập, nếu thiếu lá chắn pháp lý, họ sẽ bị triệt tiêu đầu tiên.

Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm cho ý kiến tại Diễn đàn.
Từ thực tiễn hành nghề, Luật sư cũng đã chia sẻ về một số vụ việc điển hình thể hiện rất rõ những khoảng trống của hệ thống bảo vệ thương hiệu hiện nay. Trong đó có thể kể đến vụ Nhựa Bình Minh; vụ Công ty Bảo vệ Long Hải; Vụ Gạo ST25…
Vấn đề không chỉ là hành vi “nhái tên” hay xâm phạm nhãn hiệu, mà nghiêm trọng hơn nằm ở cách hệ thống tư pháp đánh giá chứng cứ trong một vụ xâm phạm thương hiệu. Những yếu tố cốt lõi như lịch sử hoạt động, mức độ nhận diện công chúng, thị phần chi phối và sự gắn bó tâm lý của người tiêu dùng – lẽ ra phải là nền tảng bảo vệ – thì lại bị xem nhẹ so với các tiêu chí hình thức như “khác một chữ” hay “khác logo”.
Trong một vụ án sở hữu trí tuệ, nếu sự nổi tiếng tích lũy qua nhiều thập kỷ không được bảo vệ tương xứng, thì pháp luật đang vô tình gửi đi một thông điệp sai lệch: thương hiệu có bề dày vẫn có thể bị đối xử ngang hàng với những cái tên mới xuất hiện. Đó không chỉ là bất công với doanh nghiệp, mà còn là nguy cơ làm suy giảm niềm tin vào năng lực bảo vệ tài sản vô hình của hệ thống pháp luật.
Từ góc độ hành nghề thực tiễn, Luật sư Thảo đề xuất 5 nhóm chính sách cần được ưu tiên thể chế hóa.
Thứ nhất, áp dụng cơ chế bồi thường mang tính trừng phạt (punitive damages) đối với hành vi xâm phạm thương hiệu nghiêm trọng. Không thể để kẻ vi phạm chỉ “trả lại hiện trạng” rồi ung dung hưởng lợi. Cần có chế tài đủ mạnh để hành vi vi phạm không còn đáng giá để thử.
Thứ hai, thành lập hệ thống tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ – với thẩm phán am hiểu sâu sắc và có thể ban hành án lệ. Chúng ta cần một hệ thống xét xử vừa nhanh – vừa đúng – vừa tạo được tính nhất quán và dự đoán trước được cho doanh nghiệp.
Thứ ba, mở rộng và công nhận các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ độc lập. Tránh để giám định trở thành “nút cổ chai” làm trì hoãn công lý. Pháp luật cần cho phép nhiều kênh giám định cạnh tranh về chất lượng – tiến độ – chi phí.
Thứ tư, thiết lập Quỹ hỗ trợ pháp lý sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp nhỏ và startup. Đây có thể là mô hình hợp tác công – tư giữa Nhà nước, hiệp hội và giới luật sư. Không nên để hàng triệu doanh nghiệp phải đơn độc trong cuộc chiến pháp lý với các đối thủ vi phạm có tổ chức và kinh nghiệm.
Thứ năm, tăng cường truyền thông, giáo dục cộng đồng và nâng cao năng lực nhận diện thương hiệu cho người tiêu dùng. Trong một thị trường tự do, người tiêu dùng chính là tuyến đầu trong cuộc chiến bảo vệ thương hiệu. Khi họ nhận biết được hàng thật, hàng giả sẽ không còn đất sống.
“Với sự đồng hành của Nhà nước, của giới luật sư, của cộng đồng doanh nghiệp và của truyền thông, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một cơ chế bảo vệ thương hiệu vững chắc, hiệu quả – để trí tuệ Việt không chỉ được bảo vệ, mà còn trở thành năng lực cạnh tranh cốt lõi của quốc gia trong thời đại mới”, Luật sư Thảo nói.
Vai trò thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo: Thực tiễn từ doanh nghiệp
Với góc nhìn của đơn vị tiên phong trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động kinh tế, khoa học và công nghệ, ông Phạm Văn Hùng, đại diện Ban Pháp chế VCCI đã trình bày tham luận nhằm làm rõ vai trò thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thực tiễn từ doanh nghiệp.
Ông Hùng nêu rõ một số bất cập, vướng mắc về quản lý trong đổi mới sáng tạo. Cụ thể, các quy định về giấy phép và điều kiện áp dụng cho mọi quy mô và hình thức hoạt động, tạo rào cản lớn cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, vốn cần sự linh hoạt để thử nghiệm và phát triển.
Bên cạnh đó, nhiều mô hình kinh doanh hoặc công nghệ mới chưa rõ ràng về khả năng thành công, đòi hỏi không gian và thời gian để thử nghiệm. Việc áp dụng các quy định cứng nhắc ngay từ đầu có thể "bóp nghẹt" tiềm năng phát triển.
Điều này tạo ra áp lực kép cho các doanh nghiệp: Vừa phải đối mặt với áp lực thị trường đầy cạnh tranh, vừa phải chịu áp lực từ quản lý hành chính với các quy định chặt chẽ, đôi khi không phù hợp với bản chất thử nghiệm của đổi mới sáng tạo.
Ông Hùng cho rằng, đối với Việt Nam, đổi mới sáng tạo không nhất thiết là phải tạo ra cái gì hoàn toàn mới trên thế giới, mà là làm được điều gì đó mới và hiệu quả trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam thường phải đối mặt với áp lực lớn: Sản phẩm phải rẻ hơn các nước khác nhưng chất lượng phải tương đương hoặc vượt trội. Đây là thách thức nhưng cũng là động lực để tìm kiếm những giải pháp sáng tạo.

Ông Phạm Văn Hùng, đại diện Ban Pháp chế VCCI trình bày tham luận nhằm làm rõ vai trò thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thực tiễn từ doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên, đại diện Ban Pháp chế VCCI đã đưa ra một số đề xuất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cụ thể:
Thứ nhất, về cơ chế quản lý theo rủi ro, cần áp dụng linh hoạt theo quy mô và đặc điểm hoạt động của từng mô hình đổi mới sáng tạo, thay vì quy định cứng nhắc.
Thứ hai, cần phù hợp với phát triển thực tế. Theo đó, các quy định pháp luật cần được cập nhật và điều chỉnh để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và công nghệ trong nước.
Thứ ba, xây dựng mô hình quản lý đặc thù: Thiết kế khung pháp lý riêng cho hoạt động đổi mới sáng tạo, nhận diện đặc điểm và nhu cầu riêng của nó.
Thứ tư, phương thức điều chỉnh cho công nghệ mới: Cân nhắc các phương thức điều chỉnh phù hợp, khuyến khích sự phát triển của các công nghệ đột phá.
Thứ năm, tránh "bảo hộ ngược": Đánh giá kỹ lưỡng tác động của quy định lên doanh nghiệp trong nước, đảm bảo không vô tình kìm hãm đổi mới.
Thứ sáu, đẩy mạnh cơ chế Sandbox: Triển khai rộng rãi cơ chế sandbox để thử nghiệm các mô hình kinh doanh và công nghệ mới trong môi trường kiểm soát.
Như vậy, tại phiên I của Diễn đàn, các tham luận đến từ đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia đã làm rõ vai trò của tài sản trí tuệ, đổi mới sáng tạo, và yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện thể chế trong bối cảnh hiện nay.
PHIÊN II: ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN
Kiến nghị tăng mạnh chế tài xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
Trao đổi tại Diễn đàn, ông Phạm Trường Giang, Tổng Giám đốc CP EUROHOUSE Việt Nam nêu rõ về thực trạng và giải pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Theo đó, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh ngày càng khốc liệt, quyền sở hữu trí tuệ trở thành một công cụ quan trọng để bảo vệ thành quả sáng tạo, bảo đảm công bằng trong kinh doanh và khuyến khích đổi mới. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam cho thấy, các hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, sáng chế vẫn diễn ra khá phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp như nhôm, cơ khí, vật liệu xây dựng.

Ông Phạm Trường Giang, Tổng Giám đốc CP EUROHOUSE Việt Nam.
Theo ông Giang, những bất cập trong cơ chế xử lý hiện nay như sau:
Thứ nhất, việc xử lý vi phạm còn phụ thuộc quá nhiều vào chứng cứ bắt quả tang hàng hóa vi phạm. Trong nhiều trường hợp, dù đã có kết luận giám định khẳng định hành vi xâm phạm, nhưng cơ quan chức năng vẫn yêu cầu phải “bắt giữ trực tiếp hàng hóa đang lưu thông trên thị trường” mới đủ căn cứ xử lý. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vi phạm vẫn lách luật bằng cách thay đổi địa điểm sản xuất, phân phối nhỏ lẻ để tránh bị bắt quả tang. Doanh nghiệp bị xâm phạm dù có đủ chứng cứ giám định khoa học vẫn gặp khó trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng.
Thứ hai, chế tài xử phạt hành chính còn chưa đủ sức răn đe. Ông Giang cho rằng, mức phạt hiện nay theo quy định tại Nghị định 65/2023/NĐ-CP tuy đã tăng cường, nhưng so với lợi nhuận từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm thì vẫn còn quá thấp. Nhiều doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt rồi tiếp tục tái phạm.
Thứ ba, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi còn chồng chéo, thiếu tính chủ động. Cụ thể, các cơ quan như Quản lý thị trường, Thanh tra Bộ Khoa học, Công nghệ, Công an kinh tế… đều có thẩm quyền xử lý, nhưng trên thực tế, việc phối hợp còn phân tán, kéo dài thời gian, làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền SHTT.
Để khắc phục những bất cập trên, Tổng Giám đốc CP EUROHOUSE Việt Nam đưa ra một số kiến nghị.
Một là, nâng cao hiệu lực thực thi kết luận giám định. Theo đó, Kết luận giám định từ Viện Khoa học sở hữu trí tuệ cần được coi là căn cứ pháp lý trực tiếp để cơ quan chức năng xử lý, không nên phụ thuộc hoàn toàn vào việc “bắt quả tang” sản phẩm vi phạm.
Hai là, tăng mức chế tài xử phạt. Ông Giang đề xuất xem xét sửa đổi theo hướng tăng mạnh mức xử phạt hành chính, bổ sung hình phạt bổ sung như cấm kinh doanh trong một thời hạn nhất định, nhằm đảm bảo tính răn đe.
Ba là, thiết lập cơ chế “biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Cụ thể, cho phép cơ quan chức năng tạm đình chỉ sản xuất, tạm thu giữ sản phẩm ngay khi có kết luận giám định, để ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm tiếp diễn.
Bốn là, tăng cường vai trò phối hợp liên ngành. Cần một cơ chế điều phối tập trung giữa Cục Sở hữu trí tuệ, Quản lý thị trường, Công an kinh tế và Tòa án để xử lý nhanh chóng, minh bạch.
Ngoài ra, cần công khai minh bạch thông tin xử lý vi phạm. Việc công bố công khai các doanh nghiệp vi phạm trên cổng thông tin chính thức và báo chí sẽ góp phần cảnh báo, răn đe và bảo vệ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
“Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho doanh nghiệp bị xâm phạm, mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh, kìm hãm đổi mới sáng tạo và đi ngược lại nỗ lực xây dựng thương hiệu quốc gia. Vì vậy, chúng tôi tha thiết đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nước có những giải pháp căn cơ, quyết liệt và kịp thời hơn để bảo vệ doanh nghiệp chân chính, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, và quan trọng hơn là bảo vệ niềm tin vào pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam”, ông Giang bày tỏ.
Tại Diễn đàn, ông Giang cũng cho biết một số kinh nghiệm quốc tế trong xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Liên minh châu Âu (EU: Tại EU, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ mạnh mẽ bởi Quy định (EU) 2017/1001 và các chỉ thị liên quan. Khi có kết luận giám định hoặc phán quyết sơ bộ từ cơ quan chuyên môn (ví dụ: EUIPO hoặc tòa án chuyên trách), doanh nghiệp bị xâm phạm có quyền:
- Yêu cầu biện pháp khẩn cấp tạm thời (preliminary injunction), trong đó tòa án có thể ra lệnh ngừng sản xuất, niêm phong, thu giữ toàn bộ hàng hóa vi phạm mà không cần chờ “bắt quả tang” trên thị trường.
- Yêu cầu cơ quan hải quan đình chỉ thông quan lô hàng bị nghi ngờ xâm phạm dựa trên kết luận giám định.
Như vậy, mẫu vật giám định và kết luận giám định tại EU đủ giá trị pháp lý để ra quyết định khẩn cấp, không cần điều kiện chứng cứ khác.
Hoa Kỳ (Mỹ): Hệ thống pháp luật Mỹ rất coi trọng bằng chứng giám định chuyên môn. Khi có kết luận giám định từ USPTO hoặc chuyên gia được tòa công nhận, chủ thể quyền có thể nộp đơn lên Tòa án Liên bang xin lệnh tạm thời ngăn chặn (Temporary Restraining Order – TRO). Lệnh này cho phép phong tỏa tài khoản, thu giữ hàng hóa vi phạm, niêm phong xưởng sản xuất ngay lập tức.
Trong một số trường hợp, tòa có thể ra quyết định ex parte seizure (thu giữ hàng hóa khi chưa cần nghe ý kiến bên vi phạm).
Như vậy, Mỹ coi mẫu vật giám định + kết luận giám định là bằng chứng pháp lý đủ mạnh để hành động ngay, không cần chứng cứ bắt quả tang ngoài thị trường.
Trung Quốc: Trung Quốc trước đây cũng giống Việt Nam, thường yêu cầu bắt quả tang hàng hóa vi phạm. Nhưng trong 10 năm trở lại đây, do áp lực từ doanh nghiệp trong nước và quốc tế, Trung Quốc đã cải cách mạnh: Cơ quan Quản lý thị trường (SAMR) có quyền ra lệnh xử lý dựa trên kết luận giám định và mẫu vật vi phạm do doanh nghiệp cung cấp.
Tòa án SHTT Trung Quốc cho phép tạm đình chỉ sản xuất – kinh doanh ngay khi có căn cứ ban đầu (bao gồm kết luận giám định), không cần chờ kiểm tra tại hiện trường. Đây là lý do vì sao nhiều tập đoàn quốc tế đánh giá Trung Quốc hiện nay đã có cơ chế bảo vệ quyền SHTT mạnh hơn Việt Nam trong thực thi thực tế.
“Từ kinh nghiệm EU, Mỹ, Trung Quốc có thể thấy rằng Kết luận giám định, mẫu vật vi phạm phải được coi là căn cứ pháp lý độc lập và đầy đủ để xử lý. Do đó, cần bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời cho phép đình chỉ sản xuất, niêm phong, thu giữ hàng hóa vi phạm ngay khi có kết luận giám định, không cần bắt quả tang. Việc công nhận cơ chế này sẽ đặt Việt Nam ngang hàng với các hệ thống pháp luật tiên tiến; tạo niềm tin cho doanh nghiệp trong và ngoài nước, ngăn chặn hiệu quả tình trạng “lách luật” của doanh nghiệp cố tình tái phạm”, ông Giang nhấn mạnh.
Thương hiệu – tài sản vô hình nhưng hữu hình trong sức sống doanh nghiệp
Chia sẻ về vấn đề này, ông Bông Hoa Việt, đại diện Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh cho biết, thương hiệu không chỉ là một cái tên, logo mà là niềm tin, uy tín và sự gắn bó của người tiêu dùng. Việc xây dựng thương hiệu từ sự tận tâm trong từng sản phẩm, từ hệ thống phân phối rộng khắp, và từ trách nhiệm với xã hội. Tuy nhiên, chính vì giá trị ấy mà thương hiệu trở thành mục tiêu bị xâm phạm, khiến khách hàng nhầm lẫn, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp. Câu hỏi đặt ra ở đây là “Tại sao một thương hiệu lớn được đăng ký hợp pháp, có lịch sử lâu dài lại có thể bị ‘đánh cắp’ và tồn tại song song trên thị trường?”.
Trên thực tế, khung pháp luật về SHTT tại Việt Nam đã khá tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Vấn đề nằm ở cơ chế thực thi khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm. Sự ra đời của Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) và Nghị quyết 68-NQ/TW (2025) đã khẳng định đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số là động lực phát triển. Lần đầu tiên quyền sáng tạo và tài sản vô hình được coi là tài sản cốt lõi, cần được pháp luật và thể chế bảo vệ. Đây là định hướng lớn để Việt Nam tiến tới một nền kinh tế sáng tạo, nơi mỗi doanh nghiệp được bảo vệ công bằng khi mang sáng tạo của mình ra thị trường.

Ông Bông Hoa Việt, đại diện Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh chia sẻ tại Diễn đàn.
Từ thực tiễn này, ông Bông Hoa Việt đưa ra một số kiến nghị:
- Hoàn thiện toà chuyên trách về SHTT: Không chỉ thành lập mà cần nâng cao năng lực để xét xử nhanh chóng, nhất quán và hiệu quả.
- Tăng chế tài răn đe: Mức xử phạt và bồi thường phải tương xứng với thiệt hại, không để hành vi vi phạm trở thành “siêu lợi nhuận”.
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời: Cho phép doanh nghiệp áp dụng rộng rãi hơn để ngăn chặn kịp thời hàng giả, hàng nhái.
- Hỗ trợ doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng: Thành lập trung tâm hỗ trợ SHTT để tư vấn, cảnh báo và đồng hành cùng doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp.
- Phối hợp công – tư – truyền thông: Xây dựng liên minh giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội và báo chí để tạo “lá chắn mềm” bảo vệ thương hiệu.
“Câu chuyện thương hiệu bị đánh cắp không chỉ là nỗi đau doanh nghiệp mà còn là lỗ hổng thể chế. Nếu thể chế mạnh, thực thi quyết liệt, thì thương hiệu Việt sẽ không còn phải “giải trình danh dự” để chứng minh mình là chính chủ. Nhựa Bình Minh mong muốn Toạ đàm hôm nay sẽ là diễn đàn kiến tạo, để từ những vụ việc điển hình, chúng ta cùng nhau hoàn thiện cơ chế, bảo vệ quyền sáng tạo, và xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Chỉ khi đó, thương hiệu Việt mới đủ sức vươn ra thế giới, tự tin cạnh tranh, và góp phần khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu”, ông Bông Hoa Việt đưa ra quan điểm.
Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ chuyên trách tại Việt Nam
Trao đổi tại Diễn đàn nhằm làm rõ hơn những vấn đề, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã nêu, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law đã chia sẻ về thực trạng cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, chỉ ra những rào cản mang tính hệ thống. Luật sư cũng nhấn mạnh việc thành lập Tòa án SHTT chuyên trách từ ngày 01/7/2025 là một cải cách thể chế mang tính bước ngoặt, nhưng đó mới chỉ là bước đi nền tảng. Một cơ chế tài phán thực sự hiệu quả và đáng tin cậy - một cơ chế có thể thúc đẩy đầu tư nước ngoài và khuyến khích đổi mới trong nước - đòi hỏi một hệ sinh thái tư pháp toàn diện được xây dựng trên ba trụ cột phụ thuộc lẫn nhau: (1) Một kiến trúc thể chế hợp lý; (2) nguồn nhân lực chuyên sâu tích hợp giữa chuyên môn pháp lý và kỹ thuật; và (3) các thủ tục tố tụng hiện đại, hiệu quả, được bổ trợ một cách chiến lược bởi các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR).
Đặc biệt, để làm rõ tính khả thi của giải pháp, Luật sư Hà đã so sánh trực diện với mô hình Tòa án SHTT chuyên trách của các quốc gia tiên phong như Đức, Nhật Bản và Trung Quốc, đồng thời phân tích những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng để kiến tạo một thiết chế tư pháp mới đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ chuyên trách tại Việt Nam.
Trong đó đáng chú ý, Luật sư Hà nêu rõ những rào cản mang tính hệ thống của cơ chế tài phán hiện hành. Sự ra đời của hệ thống Tòa án SHTT chuyên trách từ ngày 01/7/2025 là một bước tiến quan trọng, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ tài sản trí tuệ và hiện thực hóa tinh thần của Nghị quyết 68. Tuy nhiên, việc thay đổi một cơ chế trên giấy tờ mới chỉ là bước khởi đầu. Quá trình vận hành thực tế đang bộc lộ những rào cản không nhỏ giữa chính sách và thực thi, tạo ra những thách thức mới cần được giải quyết.
Thách thức lớn nhất và mang tính nền tảng nằm ở năng lực chuyên môn của đội ngũ xét xử. Trước kia, các thẩm phán chỉ cần đáp ứng yêu cầu am hiểu luật, thì nay, bản chất của các vụ án SHTT đòi hỏi họ phải có kiến thức sâu rộng về cả kỹ thuật, công nghệ và mô hình kinh doanh. Nếu một thẩm phán không thể phân biệt được sự khác biệt tinh vi giữa hai thuật toán phần mềm hay không hiểu được giá trị của một bí mật kinh doanh trong chuỗi cung ứng, khả năng đưa ra một phán quyết thật sự công bằng là không cao.
Hệ quả trực tiếp của khoảng trống này là sự thiếu vẹn toàn trong các phán quyết. Các cá nhân và doanh nghiệp có thể cảm thấy bất công khi bản án, dù được ban hành, lại không giải quyết triệt để những thiệt hại vô hình nhưng vô cùng quan trọng mà họ phải gánh chịu. Đó là sự suy giảm về doanh thu, tổn hại về danh tiếng, đánh mất lợi thế cạnh tranh và rò rỉ bí mật kinh doanh. Khi những kịch bản này xảy ra lặp đi lặp lại, nó sẽ dần hình thành một nhận thức tiêu cực về hệ thống tư pháp.
Điều này sẽ tạo ra một hiệu ứng gợn sóng nguy hiểm. Các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy e dè hơn khi rót vốn vào một thị trường mà họ cảm thấy không chắc chắn về khả năng bảo vệ toàn vẹn tài sản của mình khi bị xâm phạm. Sự thiếu chắc chắn này sẽ khiến Việt Nam trở thành một điểm đến kém an toàn và hấp dẫn, đi ngược lại hoàn toàn với tinh thần "kỷ nguyên vươn mình" và mục tiêu thu hút vốn đầu tư chất lượng cao mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới.
Bên cạnh vấn đề năng lực, một rào cản cố hữu khác là sự chênh lệch về tốc độ giữa hành vi xâm phạm và quy trình tư pháp. Trong kỷ nguyên số, một sản phẩm vi phạm bản quyền có thể được phát tán tới hàng triệu người chỉ trong vài giờ, một bí mật kinh doanh có thể bị đánh cắp và chuyển ra nước ngoài chỉ bằng một cú nhấp chuột. Ngược lại, quy trình tố tụng để đòi lại công lý lại diễn ra rất lâu, ít là vài tháng, nhiều là vài năm.
Việc áp dụng Bộ luật Tố tụng Dân sự chung cho các tranh chấp SHTT, vốn có những đặc thù riêng về chứng cứ kỹ thuật và tính cấp bách, đã bộc lộ nhiều bất cập. Khoảng thời gian chênh lệch khổng lồ này tạo ra một "khoảng trống công lý", nơi thiệt hại cứ tiếp tục gia tăng trong khi người bị hại vẫn đang chờ đợi một phán quyết. Đến khi bản án được tuyên, doanh nghiệp có thể đã đánh mất hoàn toàn lợi thế cạnh tranh, mất đi thị phần và chịu những thiệt hại không thể khắc phục.
Ngoài ra, khả năng thực thi và răn đe của một phán quyết không chỉ phụ thuộc vào Tòa án. Để một bản án về SHTT thực sự có sức nặng, cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều bộ, ban ngành liên quan như cơ quan quản lý thị trường, hải quan, thanh tra, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án. Nếu thiếu sự phối hợp này, bản án có thể chỉ là một tờ giấy, không đủ sức răn đe các hành vi vi phạm trong tương lai và lan tỏa rộng rãi tinh thần thượng tôn pháp luật về SHTT mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới.
Luật sư Hà cũng đưa ra lộ trình chi tiết được xây dựng dựa trên ba trụ cột không thể tách rời: (i) Kiến trúc thể chế, (ii) Nguồn nhân lực, và (iii) Hiện đại hóa tố tụng.
Cụ thể, xây dựng hai tòa án chuyên trách về SHTT trong các tòa án khu vực tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Về nguồn nhân lực, một tòa án hiện đại không thể vận hành nếu thiếu những con người có chuyên môn tương xứng. Để giải quyết thách thức về năng lực đã phân tích phía trên, Việt Nam cần có những cơ chế đột phá trong việc xây dựng đội ngũ nhân sự.
Ngoài ra, để Tòa án SHTT chuyên trách thực sự hiệu quả, cần phải có những quy trình tố tụng được "may đo" riêng, giúp đẩy nhanh tiến độ và đảm bảo công lý được thực thi kịp thời.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà nhấn mạnh: Một hệ thống tư pháp SHTT hiện đại không chỉ dựa vào tòa án. Cần phải nhìn nhận và phát huy vai trò của các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, đặc biệt là Trọng tài thương mại, như một bộ phận bổ trợ chiến lược, giúp giảm tải cho tòa án và cung cấp những lựa chọn linh hoạt hơn cho doanh nghiệp. Sự ra đời của Tòa án SHTT chuyên trách vào năm 2025 đánh dấu một cột mốc lịch sử trong nỗ lực cải cách tư pháp của Việt Nam, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ đổi mới sáng tạo và thực thi tinh thần của Nghị quyết 68. Tuy nhiên, đây mới chỉ là điểm khởi đầu của một hành trình dài và đầy thách thức. Một thiết chế tư pháp mạnh không chỉ được định hình bởi một đạo luật hay một quyết định thành lập, mà phải được xây dựng từ một hệ sinh thái toàn diện, vận hành đồng bộ và hiệu quả.
Tại Diễn đàn, ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục SHTT khẳng định một lần nữa vai trò của sở hữu trí tuệ, đổi mới sáng tạo. Một quốc gia muốn phát triển phải dựa trên khoa học công nghệ. Tại Việt Nam, với sự xuất hiện của tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước về vấn đề này.
Ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục SHTT cho ý kiến tại Diễn đàn.
Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ đang nghiên cứu xây dựng Luật SHTT (sửa đổi) với 5 nội dung trọng tâm gồm:
- Thương mại hóa tài sản trí tuệ;
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính;
- Bảo vệ quyền của chủ thể sở hữu trí tuệ;
- Cam kết quốc tế;
- Nghiên cứu các vấn đề mới.
(tiếp tục cập nhật...)
10/08/2024 11:30:00
10/15/2025 15:07:00
10/13/2025 10:05:52
09/29/2025 09:17:03