Xâm phạm thương hiệu trong kinh doanh, thực trạng và kiến nghị chính sách

08/26/2025 17:02:00 / Đăng bởi Trương Anh Tú / (0) Bình luận

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế sáng tạo phát triển mạnh mẽ, thương hiệu trở thành tài sản vô giá của doanh nghiệp. Việc tài sản này bị xâm hại gây thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp, đe dọa đến sức khỏe cộng đồng, xói mòn niềm tin của người tiêu dùng…

Tại diễn đàn “Hoàn thiện chính sách tài sản trí tuệ – Động lực cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Công ty TAT Law Firm, Tạp chí Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo tổ chức chiều 28/08, LS Mai Thị Thảo – Phó Giám Đốc TAT Law Firm cho biết, giá trị thương hiệu có thể chiếm tới 30–50% tổng giá trị doanh nghiệp trong một số ngành hàng tiêu dùng nhanh, mỹ phẩm, thời trang.

Số liệu từ Cục sở hữu trí tuệ và lực lượng quản lý thị trường ghi nhận, năm 2022 có 1,430 vụ xâm phạm quyền về nhãn hiệu bị xử lý; năm 2024 có 1,256 vụ hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) bị xử lý. Nửa đầu năm 2025, cơ quan chức năng xử lý vi phạm hành chính hơn 3,270 vụ liên quan hàng giả và xâm phạm quyền SHTT. Trong tháng cao điểm (15/5 – 15/6/2025), có hơn 1,631 vụ hàng giả và xâm phạm quyền SHTT, trị giá tạm giữ hàng ngàn tỷ đồng.

Những con số này cho thấy quy mô ngày càng lớn, mức độ tinh vi, phức tạp và liều lĩnh của các hành vi xâm phạm thương hiệu. LS Mai Thị Thảo cho rằng, nếu không có cơ chế bảo hộ và thực thi đủ mạnh, thương hiệu – vốn là tài sản vô giá – có thể nhanh chóng bị xói mòn, làm suy yếu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và đe dọa sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

LS Mai Thị Thảo – Phó Giám Đốc TAT Law Firm chia sẻ tại diễn đàn. Ảnh: BTC

Những hình thức xâm phạm thương hiệu

Theo LS Mai Thị Thảo, có 5 hình thức xâm phạm phổ biến tại Việt Nam. Thứ nhất, hành vi đạo nhái bao bì và mẫu mã là hình thức vi phạm xuất hiện thường xuyên nhất trên thị trường hàng tiêu dùng. Các đối tượng vi phạm thường sao chép màu sắc, hình ảnh, bố cục và khẩu hiệu của bao bì gốc nhằm đánh lừa người tiêu dùng trong thời gian ngắn.

Với tâm lý mua hàng nhanh, người tiêu dùng dễ nhầm lẫn sản phẩm thật và giả. Hệ quả là thương hiệu chính danh bị tổn hại, doanh thu và uy tín sụt giảm, trong khi hàng giả chất lượng kém tràn ngập thị trường.

Thứ hai lợi dụng uy tín sẵn có của doanh nghiệp có tiếng để giả mạo tên thương mại. Các chủ thể vi phạm thường lập công ty hoặc cửa hàng có tên gần giống với doanh nghiệp thật, thay đổi một ký tự hoặc thêm thành tố nhỏ để tránh bị coi là trùng hoàn toàn.

Thực tế đã có không ít vụ việc kéo dài nhiều năm, cho thấy khoảng trống quy định và cơ chế bảo hộ tên thương mại.

Thứ ba, hành vi làm giả kiểu dáng và nhãn hiệu, tức gắn nhãn hiệu nổi tiếng lên hàng hóa kém chất lượng. Tình trạng này phổ biến ở lĩnh vực mỹ phẩm, dược phẩm, thực phẩm chức năng, nơi giá trị thương hiệu gắn liền với niềm tin về chất lượng và an toàn.

Việc thuốc giả, mỹ phẩm nhái xuất hiện trong bao bì gần như giống hệt sản phẩm chính hãng gây thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp, trực tiếp đe dọa đến sức khỏe cộng đồng, làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng đối với toàn bộ ngành hàng.

Thứ tư, đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự tại Cục Sở hữu trí tuệ. Nhiều cá nhân, tổ chức đã nhanh tay đăng ký trước nhãn hiệu của doanh nghiệp khác, thậm chí cả các thương hiệu quốc tế chưa kịp thâm nhập thị trường Việt Nam.

Hành vi này khiến doanh nghiệp chính danh bị mất quyền hợp pháp đối với nhãn hiệu của mình ngay trên thị trường nội địa, buộc họ phải khiếu nại, hủy bỏ hoặc thậm chí mua lại quyền từ bên đăng ký trước. Các tranh chấp này gây tốn kém về chi phí pháp lý, làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

Cuối cùng, sự bùng nổ của thương mại điện tử, truyền thông số đã mở ra không gian mới cho các hành vi xâm phạm thương hiệu. Trên sàn thương mại điện tử, mạng xã hội, hàng giả, hàng nhái được bày bán công khai với giá rẻ, trong khi việc kiểm soát gần như bất khả thi do tính chất xuyên biên giới và ẩn danh của nền tảng số.

Bên cạnh đó, việc lợi dụng công cụ quảng cáo trực tuyến như SEO, tên miền hoặc quảng cáo Google Ads để hút khách từ thương hiệu chính danh ngày càng phổ biến. Những thủ đoạn này gây thiệt hại trực tiếp về doanh thu cho doanh nghiệp, gây khủng hoảng uy tín khi khách hàng phàn nàn hoặc khi truyền thông xã hội phát hiện.

Theo LS Mai Thị Thảo, hậu quả dễ nhận thấy nhất khi thương hiệu bị xâm phạm là doanh nghiệp giảm doanh thu, mất thị phần, đối tác mất niềm tin vào tính ổn định của thương hiệu.

Nghiêm trọng hơn, xâm phạm thương hiệu gây tổn hại đến uy tín, niềm tin của người tiêu dùng. Khi sử dụng hàng giả, hàng nhái gắn với thương hiệu uy tín, người tiêu dùng sẽ có trải nghiệm tiêu cực, và dễ quy kết cho doanh nghiệp thật. Thương hiệu mất dần vị thế, khó khăn mở rộng thị phần. Đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá, một vụ việc liên quan đến hàng giả có thể nhanh chóng lan truyền, ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập, hợp tác của doanh nghiệp tại các thị trường xuất khẩu, nơi uy tín và chất lượng luôn được đặt lên hàng đầu.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải đối mặt với chi phí pháp lý và quản trị khủng hoảng ngày càng lớn. Các thủ tục khiếu nại, khởi kiện kéo dài, phức tạp không chỉ tiêu tốn tài chính mà còn làm phân tán nguồn lực quản trị, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất – kinh doanh cốt lõi.

Tác động và kiến nghị giải pháp

Theo Luật sư, sự phát triển nhanh của thương mại điện tử, kết hợp với những hạn chế về khung pháp lý và năng lực thực thi, khiến quá trình bảo vệ thương hiệu trở thành một bài toán nan giải.

Các đối tượng vi phạm ngày càng tinh vi, áp dụng nhiều thủ đoạn để che giấu hành vi, gây khó khăn cho việc phát hiện và chứng minh vi phạm.

Một thực tế là nhiều doanh nghiệp chưa có đủ thông tin, kinh nghiệm hoặc nguồn lực để tự điều tra, đánh giá mức độ xâm phạm, dẫn đến tình trạng bỏ qua hoặc đánh giá thấp những dấu hiệu vi phạm tiềm ẩn.

Trong môi trường số, việc điều tra trên các nền tảng thương mại điện tử đòi hỏi kỹ năng chuyên môn cao, trong khi các nền tảng này liên tục thay đổi chính sách và cấu trúc dữ liệu. Chi phí điều tra, bao gồm cả chi phí thuê chuyên gia và sử dụng các công cụ giám sát hiện đại, cũng là gánh nặng tài chính đáng kể đối với nhiều doanh nghiệp.

Các biện pháp truyền thống như khiếu nại hành chính hay khởi kiện dân sự thường kéo dài, tốn kém và trong nhiều trường hợp không đủ sức răn đe. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng như lực lượng Quản lý thị trường, công an và tòa án vẫn chưa thật sự đồng bộ, làm chậm tiến độ xử lý và tạo ra tâm lý e ngại cho doanh nghiệp khi theo đuổi các thủ tục pháp lý.

Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt khối vừa và nhỏ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quyền sở hữu trí tuệ và tầm quan trọng của việc chủ động bảo vệ thương hiệu. Một bộ phận người tiêu dùng, dù nhận biết sản phẩm giả, vẫn thiếu động lực hoặc ngần ngại khiếu nại, do lo ngại về thủ tục hoặc thiếu niềm tin vào hiệu quả giải quyết tranh chấp.

Theo đó, LS Mai Thị Thảo kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ đã được quy định trong Nghị quyết 81/2025/NQ-UBTVQH15, với phạm vi thẩm quyền phân bổ cho Tòa án nhân dân khu vực 2 (Hà Nội) và khu vực 1 (TPHCM). Trong đó, cần bảo đảm nguồn nhân lực chuyên sâu cho các Tòa chuyên trách SHTT, thông qua việc đào tạo thẩm phán, thư ký tòa án và đội ngũ cán bộ có kiến thức vững vàng về sở hữu trí tuệ, công nghệ và thương mại. Quy trình tố tụng cần được xây dựng nhanh gọn, minh bạch nhằm rút ngắn thời gian xét xử, để doanh nghiệp sớm được bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Bên cạnh đó, thiết lập cơ chế công khai, minh bạch trong công bố bản án, quyết định liên quan đến sở hữu trí tuệ. Tòa chuyên trách cần tăng tường hợp tác với các cơ quan quản lý như Cục Sở hữu trí tuệ, lực lượng Quản lý thị trường, Công an kinh tế…

Cần xây dựng phát triển cơ chế giám định độc lập ngoài Bộ Khoa học và Công nghệ; nâng cao chế tài xử phạt hành chính; tăng cường phối hợp liên ngành là giải pháp mang tính nền tảng.

 

Gửi bình luận:

hotline 0848009668