Thể chế hóa đổi mới sáng tạo: Bảo vệ tài sản vô hình – trụ cột cho nền kinh tế tri thức

09/11/2025 14:59:00 / Đăng bởi Trương Anh Tú / (0) Bình luận

Trong bối cảnh xâm phạm sở hữu trí tuệ, hàng giả, hàng nhái ngày càng tinh vi và phức tạp, tài sản vô hình của doanh nghiệp đang bị đe dọa nghiêm trọng. Diễn đàn khoa học “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo – Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW” do Tạp chí Luật sư Việt Nam phối hợp cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Công ty Luật TAT tổ chức đã làm rõ những bất cập trong thể chế, đồng thời đề xuất các giải pháp cấp bách để biến tài sản vô hình thành động lực phát triển quốc gia.

Tài sản vô hình – nguồn lực chiến lược dễ bị tổn thương

Phát biểu khai mạc diễn đàn, Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến – Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam nhấn mạnh, Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) không chỉ là công cụ bảo vệ sáng tạo, mà còn là “lá chắn” giúp doanh nghiệp trụ vững trong kỷ nguyên số. Tuy nhiên, thực tế xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả và hàng nhái ngày càng phức tạp, gây tổn thất lớn cho cả doanh nghiệp và nền kinh tế. 

Điều này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện chính sách, tăng cường hiệu quả thực thi và xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, giới luật sư, hiệp hội và truyền thông.

Theo ông Luyến, dự thảo Luật SHTT sửa đổi dự kiến trình Quốc hội thông qua trong năm 2025 và có hiệu lực từ năm 2026, trong đó, đề xuất thành lập tòa chuyên trách về SHTT đang được xem xét là bước đi đúng hướng, không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn khi số lượng tranh chấp ngày càng tăng, mà quan trọng hơn để thiết lập một nền tư pháp hiểu đúng - hiểu sâu. Nghị quyết 68-NQ/TW cũng nhấn mạnh yêu cầu “hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền SHTT, bảo đảm thực thi hợp đồng, giảm rủi ro pháp lý”. Điều đó cho thấy cải cách tư pháp trong lĩnh vực SHTT không chỉ là yêu cầu đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn mà trở thành chiến lược phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới.

Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến – Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam.

Tại diễn đàn, Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm cho rằng, Nghị quyết 68-NQ/TW lần đầu khẳng định tài sản vô hình là nguồn lực then chốt của nền kinh tế. Song, hệ thống pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc bảo hộ, chưa đủ mạnh để “tài chính hóa” tài sản trí tuệ và biến nó thành nguồn lực đầu tư thực sự.

Ông nhấn mạnh cần ba yếu tố mang tính nền tảng: trước hết, phải công nhận tài sản trí tuệ có thể định giá, góp vốn, thế chấp; tiếp đó, cần xây dựng một hệ sinh thái định giá và giao dịch tài sản trí tuệ, biến sáng chế và nhãn hiệu thành hàng hóa có thể lưu thông; cuối cùng, Nhà nước phải có cơ chế bảo vệ quyền sở hữu mạnh mẽ, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm để củng cố niềm tin của doanh nghiệp.

Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm.

Ở góc độ nghiên cứu, TS. Phạm Minh Huyền, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ. Đây được xem là thiết chế tư pháp đặc thù, đảm bảo doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân được bảo vệ công bằng.

Tuy nhiên, theo bà Huyền, hiện nay pháp luật mới chỉ quy định về tên gọi và thẩm quyền, chưa có chuẩn mực cụ thể về nhân sự, thủ tục và cơ chế hỗ trợ cho một thiết chế đủ sức giải quyết các vụ tranh chấp phức tạp liên quan đến sở hữu trí tuệ. Từ đó, bà kiến nghị 4 nội dung:

Thứ nhất, cần bổ sung thêm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự liên quan đến SHTT cho tòa SHTT tại tòa án nhân dân khu vực xuất phát từ những đặc thù trong việc xác định tội danh, đánh giá chứng cứ, định giá tài sản trí tuệ và xác định mức hình phạt tương ứng..

Thứ hai, về biên chế, Tòa án SHTT thuộc tòa án nhân dân khu vực và Tòa chuyên trách SHTT tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh (nếu có) phải có ít nhất 3 Thẩm phán, 3 Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Việc xác định biên chế, số lượng Thẩm phán cần căn cứ vào các yếu tố như tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp và quy mô, phạm vi, đối tượng quản lý; quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin và thực tế tình hình quản lý biên chế công chức được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Thứ ba, về nhân sự, do đặc thù của lĩnh vực SHTT, thẩm phán tòa chuyên trách phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sâu về SHTT, có thời gian công tác thực tiễn và có khả năng sử dụng ngoại ngữ tốt, đặc biệt là tiếng Anh. Trong hoạt động tuyển dụng thẩm phán, cần có cơ chế ưu tiên đối với các cá nhân có công trình nghiên cứu về SHTT, đã được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về SHTT ở nước ngoài hay có kiến thức về khoa học, công nghệ.

Thứ tư, về trình tự, thủ tục, pháp luật cần quy định thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp về SHTT tương ứng với tính chất của vụ việc. Đối với vụ việc có tính chất đơn giản, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng các quy định về thủ tục xét xử nhanh. Trong khi đó, đối với vụ việc có tính chất phức tạp, liên quan đến yếu tố kỹ thuật, Thẩm phán áp dụng thủ tục xét xử thông thường để có điều kiện đánh giá chính xác bản chất sự việc, tham khảo ý kiến của các đơn vị chuyên môn cũng như thu thập, nghiên cứu chứng cứ một cách kỹ lưỡng, cẩn trọng.

Luật sư Nguyễn Thị Thúy Chung (ASL LAW) cho rằng, để bảo vệ tài sản trí tuệ trong hoạt động này, doanh nghiệp trước hết cần chủ động đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, ký kết hợp đồng chặt chẽ và hợp tác nghiên cứu theo mô hình “đặt hàng – đồng tài trợ”. 

Ở tầm vĩ mô, Nhà nước sớm hoàn thiện khung pháp lý, ban hành chính sách ưu đãi chuyển giao công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực thực thi để vừa sàng lọc công nghệ lạc hậu, vừa tiếp nhận công nghệ tiên tiến, phù hợp với định hướng của Nghị quyết 68.

Tiến sĩ Phạm Minh Huyền, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm cũng chỉ ra nghịch lý đáng lo ngại: pháp luật về sở hữu trí tuệ không thiếu, thậm chí Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế, nhưng trên thực tế doanh nghiệp vẫn mất thương hiệu.

Nguyên nhân đến từ hạn chế trong thực thi, sự thiếu nhận thức, đặc biệt là nguồn lực hạn chế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thực trạng này khiến nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực tiêu dùng nhanh và công nghiệp chế biến dần mất lợi thế cạnh tranh, thậm chí phá sản vì bị làm giả, làm nhái sản phẩm.

Từ góc độ cơ quan quản lý nhà nước, ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) một lần nữa khẳng định vai trò đặc biệt của sở hữu trí tuệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển quốc gia. Theo ông, một quốc gia muốn phát triển bền vững thì phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ. Việc thành lập Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ là minh chứng rõ ràng cho sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề này.

Ông Huy Anh cũng cho biết, hiện Cục Sở hữu trí tuệ đang nghiên cứu xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) với năm trọng tâm chính: thương mại hóa tài sản trí tuệ; đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo vệ quyền của chủ thể sở hữu trí tuệ; thực hiện các cam kết quốc tế và nghiên cứu những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.

Ông nhấn mạnh, với vai trò là cơ quan chuyên môn, Cục SHTT sẽ luôn đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp trong bảo vệ lợi ích hợp pháp và phối hợp với các chuyên gia pháp lý để đề xuất chính sách phù hợp.

Ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ.

Chế tài yếu, vi phạm tràn lan

Phiên thảo luận thứ hai của Diễn đàn đã phản ánh rõ nét hơn thực trạng nhức nhối. Ông Phạm Trường Giang, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần EUROHOUSE Việt Nam nêu thực tế về tình trạng xâm phạm kiểu dáng, nhãn hiệu, sáng chế trong ngành nhôm, cơ khí, vật liệu xây dựng vẫn diễn ra phổ biến.

Theo ông, bất cập lớn là việc xử lý vi phạm hiện còn phụ thuộc vào yếu tố “bắt quả tang”, trong khi mức phạt hành chính quá thấp, chưa đủ sức răn đe, khiến vi phạm tái diễn nhiều lần. 

Từ những "điểm nghẽn" đó, ông cho rằng, cơ quan chức năng cần coi kết luận giám định là căn cứ pháp lý trực tiếp để xử lý thay vì chờ bắt quả tang; đồng thời tăng mạnh chế tài, thậm chí áp dụng biện pháp cấm kinh doanh tạm thời đối với doanh nghiệp vi phạm. Một cơ chế quan trọng khác là cần bổ sung biện pháp khẩn cấp, cho phép đình chỉ sản xuất, thu giữ hàng hóa vi phạm ngay khi có kết luận giám định, đặc biệt phải công khai thông tin doanh nghiệp vi phạm để cảnh báo toàn xã hội.

Ông Phạm Trường Giang, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần EUROHOUSE Việt Nam.

Kinh nghiệm từ các nước như EU, Mỹ, Trung Quốc cho thấy cơ quan chức năng hoàn toàn có thể ra lệnh dừng sản xuất, niêm phong, thu giữ chỉ dựa trên kết luận giám định thay vì chờ bắt quả tang tại hiện trường. Đây là điểm mà Việt Nam cần học hỏi và áp dụng để nâng cao hiệu quả thực thi.

Cũng ở góc độ doanh nghiệp, ông Bông Hoa Việt – đại diện Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh khẳng định thương hiệu là tài sản vô hình nhưng lại quyết định sức sống của doanh nghiệp. Thực trạng xâm phạm nhãn hiệu đang ngày càng tinh vi, gây thiệt hại trực tiếp đến uy tín, thị phần và niềm tin của khách hàng.

Từ thực tế đó ông kiến nghị cần khẩn trương hoàn thiện tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ, đồng thời nâng mức xử phạt tương xứng, áp dụng rộng rãi các biện pháp khẩn cấp. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh cần có sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và báo chí để hình thành một liên minh bảo vệ thương hiệu, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến chống xâm phạm sở hữu trí tuệ.

Ông Bông Hoa Việt – đại diện Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law đánh giá việc thành lập Tòa SHTT chuyên trách từ ngày 1/7/2025 là một bước tiến quan trọng trong cải cách tư pháp, nhưng con đường phía trước vẫn đầy thách thức. Năng lực của đội ngũ thẩm phán hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu xét xử các vụ án sở hữu trí tuệ có tính chất kỹ thuật cao.

Bên cạnh đó, quy trình tố tụng vẫn còn chậm so với tốc độ vi phạm ngày càng tinh vi. Thiếu cơ chế phối hợp trong thi hành án cũng khiến nhiều bản án khó đi vào thực tế.

Ông đề xuất cần có lộ trình xây dựng Tòa SHTT hiện đại dựa trên ba trụ cột: kiến trúc thể chế phù hợp, đội ngũ nhân lực chuyên sâu và thủ tục tố tụng “may đo” cho các tranh chấp sở hữu trí tuệ, đồng thời khuyến khích kết hợp các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa để giảm tải.

Những ý kiến tại diễn đàn đều thống nhất ở một điểm: tài sản vô hình đã và đang trở thành trụ cột của nền kinh tế tri thức. Nếu Việt Nam không sớm hoàn thiện thể chế, siết chặt cơ chế bảo vệ thì sẽ tiếp tục trả giá bằng những thương hiệu bị mất, doanh nghiệp suy yếu và sự thất thoát sáng tạo.

Nghị quyết 68-NQ/TW đã đặt nền móng quan trọng nhưng hiện thực hóa nó đòi hỏi hành động quyết liệt, từ tăng cường chế tài, hoàn thiện tư pháp, hỗ trợ doanh nghiệp, đến việc phát huy vai trò giám sát của xã hội và các cơ quan báo chí, truyền thông. Chỉ khi đó đổi mới sáng tạo mới thực sự trở thành động lực phát triển quốc gia và tài sản vô hình mới được bảo vệ đúng với giá trị chiến lược của nó.

Gửi bình luận:

hotline 0848009668